Tại thời điểm tháng 12/2022, hầu hết các tổ chức quốc tế đều điều chỉnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2022 so với các dự báo đưa ra trước đó. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) giữ nguyên dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu ở mức 3,2% trong năm 2022 so với thời điểm tháng 7/2022, nhưng giảm 0,2 điểm phần trăm dự báo tăng trưởng năm 2023, đạt mức 2,7%. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2022 đạt 3,1%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 9/2022 và sẽ chậm lại ở mức 2,2% vào năm 2023. Fitch Ratings (FR) điều chỉnh tăng 0,2 điểm phần trăm dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2022 so với dự báo trong tháng 9/2022, đạt 2,6% trước khi giảm xuống còn 1,4% trong năm 2023.
Các sản phẩm chuối đã chế biến xuất khẩu chủ lực của Việt Nam bao gồm:
Các thị trường xuất khẩu chuối đã chế biến của Việt Nam chủ yếu là các thị trường châu Á, trong đó thị trường Trung Quốc chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu chuối đã chế biến. Các thị trường xuất khẩu tiềm năng khác của chuối đã chế biến Việt Nam bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc,...
Các quy định xuất khẩu chuối đã chế biến của Việt Nam được quy định tại các văn bản pháp luật sau:
Theo các văn bản pháp luật này, các lô chuối đã chế biến xuất khẩu phải đáp ứng các quy định về:
Tiêu chuẩn chất lượng đối với chuối đã chế biến xuất khẩu được quy định tại các văn bản pháp luật sau:
Các tiêu chuẩn này quy định các chỉ tiêu về cảm quan, hóa lý, vi sinh vật đối với chuối đã chế biến. Các lô chuối đã chế biến xuất khẩu phải đạt các chỉ tiêu quy định tại các tiêu chuẩn này.
Chứng nhận chất lượng đối với chuối đã chế biến xuất khẩu được thực hiện bởi cơ quan có thẩm quyền, được chỉ định bởi Bộ Y tế.
Để được cấp giấy chứng nhận chất lượng, các lô chuối đã chế biến xuất khẩu phải được kiểm tra chất lượng tại cơ quan có thẩm quyền. Kết quả kiểm tra phải đạt yêu cầu thì mới được cấp giấy chứng nhận chất lượng.
Bao bì đựng chuối đã chế biến xuất khẩu phải đáp ứng các quy định về an toàn thực phẩm, cụ thể như sau:
Thủ tục xuất khẩu chuối đã chế biến được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 109/2020/NĐ-CP và Thông tư số 56/2021/TT-BCT.
Các doanh nghiệp xuất khẩu chuối đã chế biến cần thực hiện các thủ tục sau:
Với những quy định chặt chẽ về chất lượng, an toàn thực phẩm và thủ tục xuất khẩu, xuất khẩu chuối đã chế biến của Việt Nam cần được doanh nghiệp chú trọng thực hiện để đáp ứng được yêu cầu của các thị trường nhập khẩu.
Một số nguyên nhân khiến xuất khẩu chuối đã chế biến có kim ngạch ít hơn xuất khẩu chuối tươi
Tại thời điểm tháng 6/2024[1], các tổ chức quốc tế đều nhận định lạc quan hơn về tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 so với các dự báo đưa ra trước đó. Cụ thể, Ngân hàng Thế giới (WB)[2] dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2024 đạt 2,6% (tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo tháng 01/2024); Fitch Ratings (FR)[3]dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 đạt 2,6%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 3/2024; Liên hợp quốc (UN)[4] nhận định nền kinh tế thế giới đạt mức tăng trưởng 2,7% trong năm 2024 (tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo tháng 01/2024); Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)[5] dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2024 đạt 3,1% (tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo tháng 02/2024); Liên minh châu Âu (EU)[6] dự báo kinh tế toàn cầu năm 2024 tăng trưởng 3,2% (tăng 0,1 điểm phần trăm so với tăng trưởng năm 2023); Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)[7] nhận định nền kinh thế giới đạt mức tăng trưởng 3,2% năm 2024, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo tháng 01/2024.
Theo báo cáo “Triển vọng phát triển châu Á” của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)[8], tăng trưởng của khu vực Đông Nam Á (bao gồm Timo-Leste) dự báo đạt 4,6% trong năm 2024 do nhu cầu nội địa tăng cao và du lịch tiếp tục phục hồi. Tăng trưởng của Việt Nam và Phi-li-pin năm 2024 được dự báo cao nhất khu vực, cùng đạt 6,0%, theo sau là Cam-pu-chia 5,8%, In-đô-nê-xi-a 5,0%, Ma-lai-xi-a 4,5% và Lào 4,0%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan, Xin-ga-po được dự báo thấp hơn từ 2,3 đến 2,5 lần so với Việt Nam và Phi-li-pin, lần lượt đạt 2,6% và 2,4%. Tăng trưởng kinh tế của Mi-an-ma được dự báo thấp nhất khu vực trong năm 2024, chỉ đạt 1,2%.
Các tổ chức quốc tế (WB, IMF, ADB và OECD) đều nhận định tăng trưởng của Việt Nam năm 2024 cao hơn năm 2023 từ 0,5-1,0 điểm phần trăm, lần lượt ở các mức 5,5%; 5,8%; 6,0% và 6,0%.
1. Triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2024 lạc quan hơn so với các dự báo trước đó
Các tổ chức quốc tế đều nâng triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 so với dự báo trước đó.
Trong Báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 6/2024, WB dự báo nền kinh tế toàn cầu đang ổn định sau nhiều năm chịu những cú sốc. WB điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2024, lên 2,6% (tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024) chủ yếu là do nền kinh tế Hoa Kỳ tiếp tục tăng trưởng vững chắc. Tăng trưởng năm 2024 ở các nền kinh tế phát triển được dự báo đạt 1,5% (tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024), nhưng có sự khác biệt rõ rệt trong tăng trưởng ở các nền kinh tế lớn. Tăng trưởng tại các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi dự báo đạt 4,0% trong năm 2024 (tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo đầu năm). Giảm tốc tăng trưởng ở Trung Quốc dự kiến sẽ được bù đắp bằng tăng trưởng vững chắc ở các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi khác nhờ nhu cầu trong nước được cải thiện và thương mại phục hồi.
Trong báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 6/2024, FR dự báo kinh tế toàn cầu năm 2024 đạt 2,6%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 3/2024. Điều chỉnh tăng này là do kinh tế của khu vực châu Âu có dấu hiệu phục hồi, xuất khẩu của Trung Quốc cải thiện và nhu cầu nội địa ở các nền kinh tế mới nổi (trừ Trung Quốc) tăng. So với dự báo đưa ra vào tháng 3/2024, FR nhận định kinh tế Hoa Kỳ đang chậm dần và giữ nguyên dự báo tăng trưởng năm 2024 của quốc gia này ở mức 2,1%. Tăng trưởng của khu vực đồng Euro được FR điều chỉnh tăng 0,2 điểm phần trăm, đạt 0,8%. Trung Quốc được dự báo đạt mức tăng trưởng 4,8%, tăng 0,3 điểm phần trăm. Tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi (trừ Trung Quốc) đạt 3,7%, cao hơn 0,5 điểm phần trăm.
Trong báo cáo Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới giữa năm 2024, UN nhận định triển vọng kinh tế toàn cầu cải thiện đáng kể so với dự báo trong tháng 01/2024. Hầu hết các nền kinh tế lớn lạm phát đã hạ nhiệt, tỷ lệ thất nghiệp ổn định và nguy cơ suy thoái kinh tế đã được kiểm soát. Tuy nhiên, lãi suất cao trong thời gian dài, khó khăn về nợ và rủi ro địa chính trị leo thang sẽ tiếp tục thách thức tăng trưởng bền vững của kinh tế toàn cầu. Theo đó, UN dự báo kinh tế thế giới đạt mức tăng trưởng 2,7% năm 2024 (tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024). Điều chỉnh tăng chủ yếu do triển vọng được cải thiện ở Hoa Kỳ và một số nền kinh tế đang phát triển, đặc biệt Ấn Độ và Bra-xin.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)
Trong báo cáo Triển vọng kinh tế tháng 6/2024, OECD dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu đạt 3,1% trong năm 2024, tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 02/2024. Sự khác biệt tăng trưởng giữa các nền kinh tế sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới nhưng sẽ giảm dần khi châu Âu phục hồi vững chắc hơn, Hoa Kỳ, Ấn Độ và một số nền kinh tế mới nổi khác tăng trưởng chậm lại. Tăng trưởng của Hoa Kỳ được thúc đẩy bởi tiêu dùng hộ gia đình mạnh mẽ và chính sách tài khóa mở rộng, nhưng lại suy yếu ở nhiều nền kinh tế phát triển khác. Trong số các nền kinh tế mới nổi, Ấn Độ đạt mức tăng trưởng GDP cao nhờ đầu tư công tăng cao, Bra-xin, Mê-hi-cô và Thổ Nhĩ Kỳ tăng trưởng khá mặc dù điều kiện tài chính thắt chặt hơn. Tăng trưởng cũng được củng cố ở Trung Quốc trong quý đầu của năm 2024 nhờ các chính sách kích thích bù đắp sự suy yếu của thị trường bất động sản.
Theo Dự báo kinh tế mùa xuân 2024 của EU phát hành vào tháng 5/2024, tăng trưởng toàn cầu tăng từ 3,1% năm 2023 lên 3,2% trong năm 2024. Nếu không bao gồm EU, tăng trưởng toàn cầu dự báo đạt 3,5% trong năm 2024, cao hơn 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 11/2023. Triển vọng tăng trưởng năm 2024 được điều chỉnh tăng là do kinh tế Hoa Kỳ và một số nền kinh tế mới nổi, đặc biệt Trung Quốc và Ấn Độ được cải thiện.
Theo báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới tháng 4/2024 của IMF, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 dự báo đạt 3,2%, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024, nhưng vẫn thấp hơn mức trung bình 3,8% của giai đoạn 2000-2019. Các nền kinh tế phát triển sẽ có mức tăng trưởng nhẹ, phản ánh sự phục hồi ở khu vực đồng Euro sau mức tăng trưởng thấp vào năm 2023; các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển sẽ có mức tăng trưởng ổn định trong năm 2024. Đối với các nền kinh tế phát triển, dự báo tăng trưởng đạt 1,7% trong năm 2024, điều chỉnh tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024. Tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển, tăng trưởng dự báo đạt 4,2% trong năm 2024, tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024.
Hình 1. Đánh giá tăng trưởng toàn cầu năm 2023 và dự báo năm 2024 của các tổ chức quốc tế[9]
Nguồn: WB, FR, UN, OECD, EU và IMF
Hình trên cho thấy hầu hết các tổ chức quốc tế (WB, FR, UN, OECD và IMF) đều nhận định tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu trong năm 2024 sẽ tương đương mức tăng năm 2023, đạt từ 2,6% đến 3,2%. Riêng EU đánh giá khả quan hơn khi dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2024 đạt 3,2%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với mức tăng năm 2023 và cũng là mức tăng cao nhất trong các dự báo.
2. Tổng quan biến động thị trường thế giới
Thương mại hàng hóa toàn cầu cải thiện dần trong năm 2024
Trong báo cáo Triển vọng thương mại toàn cầu và thống kê, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)[10] nhận định tăng trưởng thương mại sẽ cải thiện dần trong năm 2024 bất chấp xung đột khu vực và căng thẳng địa chính trị. Khối lượng thương mại hàng hóa thế giới dự báo tăng 2,6% trong năm 2024 và 3,3% trong năm 2025 do nhu cầu giao dịch hàng hóa tăng trở lại sau khi suy giảm vào năm 2023. Giá năng lượng cao và lạm phát kéo dài đã tác động đến nhu cầu đối với hàng hóa sản xuất phục vụ thương mại, nhưng nhu cầu này sẽ phục hồi khi áp lực lạm phát giảm bớt và thu nhập thực tế của hộ gia đình được cải thiện.
WB dự báo tăng trưởng thương mại toàn cầu đạt 2,5% trong năm 2024, cải thiện đáng kể so với mức 0,2% của năm trước nhưng vẫn thấp hơn tốc độ trung bình của hai thập kỷ trước đại dịch (2000-2019).
Lạm phát toàn cầu tiếp tục giảm về mức mục tiêu
OECD nhận định lạm phát chung đã giảm ở hầu hết các nền kinh tế nhờ thực hiện các chính sách thắt chặt tiền tệ, giá năng lượng thấp hơn và áp lực chuỗi cung ứng tiếp tục giảm. Lạm phát giá lương thực cũng giảm mạnh ở hầu hết các quốc gia do bội thu các loại cây trồng chủ chốt như lúa mì và ngô. Lạm phát trung bình của các nền kinh tế phát triển giảm từ 9,9% trong Quý IV/2022 xuống còn 3,0% trong Quý I/2024. Lạm phát nhìn chung cũng giảm ở các nền kinh tế mới nổi, ngoại trừ Ác-hen-ti-na và Thổ Nhĩ Kỳ. Lạm phát ở Trung Quốc vẫn ở mức rất thấp, chỉ 0,3% trong tháng 05/2024. Khoảng 1/3 nền kinh tế trên toàn cầu có lạm phát chung hiện ở mức bằng hoặc dưới mức mục tiêu.
Theo WB, lạm phát toàn cầu tiếp tục giảm nhưng vẫn trên mức mục tiêu ở hầu hết các nền kinh tế phát triển và ở khoảng 1/4 các các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi. Ở các nền kinh tế phát triển, giảm lạm phát trong giá hàng tiêu dùng dường như đã chạm đáy, trong khi lạm phát trong dịch vụ tiêu dùng vẫn ở mức cao. Tại Hoa Kỳ, hoạt động kinh tế mạnh mẽ, cùng với sự gia tăng nhanh chóng về chi phí nhà ở, làm tăng lạm phát cơ bản. Năng suất thấp ở khu vực đồng Euro đã khiến chi phí lao động trong toàn nền kinh tế cao hơn, làm tăng lạm phát cơ bản và dịch vụ, bất chấp nhu cầu yếu ở khu vực này. Tại các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi, lạm phát nhìn chung tiếp tục giảm trong 12 tháng qua, có xu hướng gần bằng hoặc dưới mức trung bình trước đại dịch. Tuy nhiên, tiến độ này diễn ra chậm và không đồng đều ở các khu vực trên thế giới.
IMF cũng đồng quan điểm khi cho rằng lạm phát toàn cầu dự báo sẽ giảm từ mức trung bình 6,8% vào năm 2023 xuống còn 5,9% vào năm 2024 (điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo tháng 01/2024).
Theo WB, dự báo giá hàng hóa trung bình sẽ giảm nhẹ nhờ nguồn cung được cải thiện. Rủi ro địa chính trị tiếp diễn khiến giá dầu Brent trung bình được dự báo ở mức 84 USD/thùng trong năm 2024 trong bối cảnh OPEC+ cắt giảm một phần nguồn cung. Giá khí đốt tự nhiên đã giảm gần 28,0% trong Quý I/2024 so với quý trước, trong bối cảnh sản xuất tăng trưởng mạnh, thời tiết mùa đông ôn hòa và hàng tồn kho tăng cao. Giá khí đốt tự nhiên của Hoa Kỳ dự báo sẽ ổn định trong thời gian tới. Giá khí đốt tự nhiên ở châu Âu tăng trở lại trong Quý II/2024, phản ánh rủi ro nguồn cung dai dẳng liên quan đến xung đột đang diễn ra.
Hầu hết giá kim loại tương đối ổn định trong Quý I/2024. Tuy nhiên, trong số các kim loại quý, giá vàng đạt mức cao kỷ lục, bởi những lo ngại về địa chính trị và lực mua của các ngân hàng trung ương. Trong Quý II/2024, giá đồng đô la Mỹ tăng cao kỷ lục do lo ngại về nguồn cung, giá nhôm tiêu chuẩn tăng vọt sau khi áp dụng các lệnh trừng phạt mới đối với Liên bang Nga. Giá kim loại, ngoại trừ kim loại quý, được dự báo sẽ ít thay đổi trong giai đoạn 2024-2025, nhưng vẫn cao hơn nhiều so với mức trước đại dịch.
Giá hàng hóa nông nghiệp gần như không đổi trong Quý I/2024 và giá nông nghiệp trung bình dự báo sẽ giảm trong năm 2024 và 2025. Giá lương thực, thực phẩm được dự báo giảm 6,0% trong năm 2024, phản ánh nguồn cung dồi dào về ngũ cốc và dầu ăn. Tuy nhiên, thời tiết không ổn định và các hạn chế hoặc gián đoạn thương mại ngày càng tăng có thể đẩy giá cao hơn. Chỉ số giá lương thực, thực phẩm của FAO (FFPI)[11] đạt mức 120,4 điểm trong tháng 5/2024, tăng 1,1 điểm (0,9%) so với tháng 4/2024. Mặc dù tăng nhẹ so với tháng trước, FFPI trong tháng 5/2024 vẫn giảm 3,4% so với cùng kỳ năm trước và thấp hơn 24,9% so với mức đỉnh 160,2 điểm trong tháng 3/2022.
Điều kiện tài chính đã nới lỏng
OECD cho rằng các điều kiện tài chính toàn cầu gần đây đã nới lỏng nhưng lãi suất thực vẫn ở mức cao. Sau khi giảm vào cuối năm 2023, ở hầu hết các nền kinh tế, lợi suất trái phiếu chính phủ dài hạn danh nghĩa đã tăng kể từ đầu năm 2024, phản ánh sự thay đổi kỳ vọng của thị trường về lộ trình tương lai của lãi suất chính sách ở các nền kinh tế phát triển lớn và gia tăng phí bảo hiểm định kỳ. Đồng đô la Mỹ đã tăng giá về mặt danh nghĩa kể từ tháng 01/2024, kéo theo sự mất giá tiền tệ ở các thị trường mới nổi có lạm phát cao.
Tương tự, WB cho rằng các điều kiện tài chính toàn cầu đã dịu bớt kể từ năm 2023. Ngân hàng trung ương ở các nền kinh tế phát triển dự kiến sẽ giảm dần lãi suất chính sách trong năm nay, nhưng mức lãi suất thực tế vẫn sẽ được cho là lực cản đối với hoạt động kinh tế, mặc dù đang giảm. Các điều kiện tài chính của các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi cũng được nới lỏng trong Quý I/2024, phản ánh tâm lý nhà đầu tư toàn cầu được cải thiện và việc cắt giảm lãi suất chính sách đang diễn ra ở nhiều nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi.
Theo UN, trong 4 tháng đầu năm 2024, tỷ lệ thất nghiệp đạt mức thấp và một số lĩnh vực đang thiếu hụt lao động trầm trọng. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ thất nghiệp dao động quanh mức 3,8%, cao hơn mức thấp lịch sử 3,4% trong tháng 4/2023. Ở châu Âu, mặc dù tăng trưởng kinh tế chậm lại trong Quý I/2024, việc làm vẫn ở mức cao do các công ty chọn cách giữ chân người lao động để tránh chi phí thuê lại hoặc đào tạo nghề.
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)[12] điều chỉnh dự báo về tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu năm 2024, ở mức 4,9%, giảm 0,3 điểm phần trăm so với dự báo 5,2% trong tháng 11/2023. Điều chỉnh này chủ yếu xuất phát từ tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn dự kiến ở Trung Quốc, Ấn Độ và các nước có thu nhập cao. Tỷ lệ thất nghiệp 4,9% đồng nghĩa có 183 triệu người thất nghiệp vào năm 2024.
Ước tính mới nhất về khoảng cách việc làm cho thấy 402 triệu người không có việc làm nhưng muốn làm việc vào năm 2024. Trong đó, 183 triệu người thất nghiệp, 137 triệu người nằm trong lực lượng lao động tiềm năng và 82 triệu người đang trong độ tuổi lao động, nhưng không mong muốn tìm việc. Ước tính của ILO cho thấy thị trường lao động toàn cầu vẫn thiếu hụt việc làm đáng kể.
3. Một số nhân tố rủi ro tác động tới triển vọng kinh tế thế giới
Rủi ro đối với triển vọng kinh tế toàn cầu tiếp tục theo hướng giảm tăng trưởng trong bối cảnh bất ổn tăng cao. WB chỉ ra năm nhân tố rủi ro chính làm giảm triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong thời gian tới, gồm:
Thứ nhất, gia tăng xung đột vũ trang và rủi ro địa chính trị.
Rủi ro liên quan đến xung đột vũ trang đã tăng mạnh do xung đột đang diễn ra ở Trung Đông, các cuộc tấn công vào tàu thuyền ở Biển Đỏ, tình trạng an ninh suy giảm rõ rệt ở các khu vực châu Phi cận Sahara và xung đột đang diễn ra tại U-crai-na. Nếu xung đột ở Trung Đông gia tăng, nguồn cung dầu có thể bị gián đoạn đáng kể và giá hàng hóa sẽ tăng đột biến, có khả năng làm suy yếu các nỗ lực đưa lạm phát trở lại mục tiêu trên toàn cầu. Cuộc xung đột Nga – U-crai-na sẽ tiếp tục gây rủi ro cho thị trường hàng hóa cũng như an ninh khu vực. Sự kết hợp của nhiều cuộc xung đột vũ trang và tác động dây chuyền có nguy cơ làm trầm trọng thêm sự bất ổn về môi trường địa chính trị, cản trở đầu tư, làm suy giảm tâm lý của cả người tiêu dùng và doanh nghiệp, đồng thời làm tăng biến động tài chính.
Thứ hai, sự phân mảnh và không chắc chắn về chính sách thương mại.
Gia tăng các hạn chế thương mại sẽ khiến triển vọng tăng trưởng toàn cầu suy giảm đáng kể, làm chuyển hướng thương mại khỏi nhà cung cấp có chi phí thấp nhất, dẫn đến sự gián đoạn đối với chuỗi cung ứng toàn cầu. Việc tái cấu trúc chuỗi cung ứng rất tốn kém và có thể dẫn đến giảm phúc lợi khi các công ty dành nguồn lực để tìm kiếm, thay thế nhà cung cấp. Sự bất ổn ngày càng tăng trong chính sách thương mại và sự suy yếu hơn nữa của hệ thống thương mại đa phương có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Trong ngắn hạn, sự không chắc chắn về gia tăng chính sách thương mại có thể làm chậm hoạt động đầu tư kinh doanh ở các nền kinh tế phát triển, các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi. Về lâu dài, chuỗi cung ứng kém hiệu quả có thể làm giảm lợi nhuận trên vốn, gây trở ngại cho tăng trưởng năng suất.
Thứ ba, lãi suất cao hơn trong thời gian dài hơn.
Lạm phát dai dẳng và lãi suất chính sách cao hơn ở Hoa Kỳ và các nền kinh tế phát triển khác sẽ đè nặng lên tăng trưởng toàn cầu. Cùng với chi phí đi vay tăng cao, lạm phát cao ở các nền kinh tế phát triển sẽ làm giảm thu nhập thực tế và chi tiêu của người tiêu dùng. Nhiều ngân hàng trung ương tại các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi cũng có thể trì hoãn hoặc làm chậm quá trình nới lỏng tiền tệ, một phần để ngăn chặn rủi ro lạm phát có thể xảy ra do đồng tiền mất giá. Theo đó, tăng trưởng toàn cầu chậm lại do sự kết hợp của các điều kiện tài chính thắt chặt hơn và mức tăng thu nhập thực tế yếu hơn. Ngoài ra, nhu cầu bên ngoài yếu hơn sẽ làm giảm tăng trưởng xuất khẩu ở các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi.
Thứ tư, tăng trưởng yếu hơn dự kiến ở Trung Quốc.
Tăng trưởng yếu hơn ở Trung Quốc có thể có tác động lan tỏa bất lợi thông qua thị trường hàng hóa và thương mại toàn cầu, ảnh hưởng đến sự phục hồi thương mại toàn cầu, làm giảm hoạt động ở các nền kinh tế phụ thuộc vào thương mại. Mặc dù khả năng hội nhập của Trung Quốc vào thị trường tài chính toàn cầu vẫn còn hạn chế, nhưng sự suy giảm mạnh này có thể tạo ra tác động lan tỏa tài chính bất lợi. Trong bối cảnh nợ công và tư nhân ở mức cao và ngày càng tăng, tốc độ tăng trưởng chậm hơn ở Trung Quốc và những lo ngại về rủi ro tài chính gia tăng có thể khiến các cơ quan chức năng phải kiềm chế tăng trưởng tín dụng và chuyển hướng sang củng cố tài chính.
Thứ năm, thiên tai xảy ra thường xuyên hơn với tác động ngày càng nghiêm trọng hơn.
Tần suất và mức độ nghiêm trọng của thiên tai đã tăng lên theo thời gian và dự kiến sẽ còn tăng hơn nữa do biến đổi khí hậu, gây rủi ro đối với tăng trưởng toàn cầu. Các hiện tượng như El Niño và La Niña đang diễn ra có nguy cơ tác động tiêu cực đến sản lượng nông nghiệp, tạo áp lực lên giá trong thời gian tới. Những hiện tượng thời tiết này có thể trở nên cực đoan hơn và tăng tần suất trong bối cảnh phát thải khí nhà kính ngày càng tăng sẽ gây thiệt hại về lâu dài và gia tăng lây lan dịch bệnh.
II. TĂNG TRƯỞNG CỦA MỘT SỐ NỀN KINH TẾ
IMF nhận định tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ dự báo đạt 2,7% năm 2024, điều chỉnh tăng 0,6 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024, phản ánh kết quả tăng trưởng mạnh hơn dự kiến từ Quý IV/2023 và động lực tăng trưởng tiếp tục mạnh mẽ trong năm 2024.
Theo OECD, tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ năm 2024 dự báo đạt 2,6%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với tăng trưởng năm 2023, điều chỉnh tăng 0,5 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra trong tháng 02/2024. Nới lỏng chính sách tiền tệ, chi tiêu hộ gia đình được cải thiện và khả năng phục hồi của thị trường lao động sẽ là động lực thúc đẩy tăng trưởng Hoa Kỳ nửa cuối năm 2024. Đây là lý do OECD điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng GDP của nền kinh tế Hoa Kỳ.
WB điều chỉnh tăng 0,9 điểm phần trăm dự báo tăng trưởng của nền kinh tế Hoa Kỳ từ mức 1,6% trong tháng 01/2024 lên 2,5%, bằng với mức tăng trưởng của năm 2023 trước những tín hiệu tích cực của chỉ số niềm tin người tiêu dùng.
UN dự báo trong báo cáo Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới giữa năm 2024 nền kinh tế Hoa Kỳ đạt mức tăng trưởng 2,3% trong năm 2024, điều chỉnh tăng 0,9 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024. Tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp thấp là những yếu tố tích cực khiến UN đưa ra đánh giá lạc quan về tăng trưởng của nền kinh tế Hoa Kỳ năm 2024 so với dự báo trước đó, tuy nhiên vẫn thấp hơn mức tăng trưởng 2,5% của năm 2023.
ADB nhận định về tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ ngược với xu hướng của các tổ chức IMF, OECD, WB và UN. Theo đó, ADB dự báo tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ chỉ đạt 1,9% trong năm 2024, điều chỉnh giảm 0,5 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 12/2023. Điều kiện thị trường lao động và tăng trưởng tiêu dùng chậm lại là những nguyên nhân chính khiến ADB hạ mức dự báo tăng trưởng năm 2024 của Hoa Kỳ.
Trading Economics[13] dự báo tăng trưởng GDP Quý II/2024 của Hoa Kỳ tăng 1,5% so với quý trước và tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2023.
Theo Trading Economics, chỉ số PMI tổng hợp Hoa Kỳ trong tháng 6/2024 đạt 54,6 điểm, tăng 0,1 điểm so với mức 54,5 trong tháng 5/2024 và cao nhất kể từ tháng 4/2022. Lĩnh vực dịch vụ cải thiện nhiều nhất, với PMI dịch vụ đạt 55,1 điểm (tăng so với mức 54,8 điểm trong tháng 5/2024). PMI chế biến chế tạo đạt 51,7 điểm (giảm so với mức 53,0 điểm trong tháng 5/2024), nhưng vẫn đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế Hoa Kỳ.
Hình 2. Đánh giá tăng trưởng của Hoa Kỳ năm 2023 và dự báo tăng trưởng năm 2024 theo các tổ chức quốc tế
Như vậy, trừ ADB, các tổ chức quốc tế (IMF, OECD, WB và UN) đều điều chỉnh tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2024 của Hoa Kỳ so với dự báo trước đó. IMF, OECD và WB dự báo tăng trưởng năm 2024 của Hoa Kỳ cao hơn hoặc bằng với mức 2,5% của năm 2023. Trong khi đó, UN và ADB dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ năm 2024 thấp hơn mức tăng của năm 2023, lần lượt đạt 2,3% và 1,9%.
IMF nhận định tăng trưởng GDP của khu vực đồng Euro năm 2024 sẽ phục hồi từ mức tăng trưởng thấp 0,4% của năm 2023 lên mức 0,8% năm 2024, điều chỉnh giảm 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024 do tốc độ phục hồi kinh tế Đức chậm trong bối cảnh niềm tin người tiêu dùng Đức liên tục giảm.
UN dự báo tăng trưởng GDP khu vực đồng Euro năm 2024 đạt 0,8%, điều chỉnh giảm 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024, cao hơn 0,4 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng 0,4% của năm 2023.
OECD nhận định khu vực đồng Euro kết thúc năm 2023 trong suy thoái, chỉ tăng trưởng 0,5%. Tuy nhiên, tác động từ cú sốc về giá năng lượng tăng đột biến năm 2022 giảm dần, thu nhập thực tế hộ gia đình phục hồi, thị trường lao động thắt chặt và lãi suất chính sách giảm là những động lực giúp nền kinh tế khu vực đồng Euro dần phục hồi. Theo đó, OECD dự báo tăng trưởng GDP của khu vực này đạt 0,7% năm 2024, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra trong tháng 02/2024 và cao hơn 0,2 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng của năm 2023.
WB giữ nguyên dự báo tăng trưởng GDP khu vực đồng Euro năm 2024, ở mức 0,7% so với dự báo vào tháng 01/2024. Hoạt động dịch vụ phục hồi trong những tháng đầu năm 2024 đi kèm với phục hồi thu nhập thực tế, tăng chi tiêu dùng, lạm phát giảm và tiền lương tiếp tục tăng là những nhân tố tích cực khiến WB tiếp tục có nhận định khả quan về tăng trưởng GDP của khu vực đồng Euro trong năm 2024. Theo đó, dự báo tăng trưởng khu vực đồng Euro năm 2024 cao hơn 0,2 điểm phần trăm so với năm 2023.
Theo ADB, nhu cầu tiêu dùng nội khối tăng kết hợp với môi trường kinh doanh bên ngoài thuận lợi là những yếu tố tích cực góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khu vực đồng Euro lên mức 0,7% năm 2024, tăng 0,2 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng 0,5% của năm 2023.
Theo Trading Economics, GDP Quý II/2024 của khu vực đồng Euro dự báo tăng 0,3% so với Quý I/2024 và tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số PMI tổng hợp của khu vực đồng Euro trong tháng 6/2024 đạt 50,8 điểm, giảm 1,4 điểm so với mức 52,2 điểm của tháng 5/2024, nhưng vẫn cho thấy sự mở rộng trong hoạt động kinh tế tư nhân khi tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ đạt 52,6 điểm trong tháng 6/2024, đủ để bù đắp cho sụt giảm của lĩnh vực chế biến chế tạo (45,6 điểm tháng 6/2024 so với 47,3 điểm trong tháng 5/2024).
Hình 3. Đánh giá tăng trưởng của khu vực đồng Euro năm 2023 và dự báo tăng trưởng năm 2024 theo các tổ chức quốc tế
Nguồn: IMF, UN, OECD, WB, và ADB
Như vậy, các tổ chức quốc tế đều nhận định tăng trưởng kinh tế của khu vực đồng Euro dự báo sẽ phục hồi từ mức tăng trưởng thấp, khoảng 0,5% năm 2023 lên mức 0,7% – 0,8% năm 2024.
UN giữ nguyên mức dự báo tăng trưởng GDP của Nhật Bản năm 2024, ở mức 1,2% như đã đưa ra trong dự báo vào tháng 01/2024. Mặc dù nền kinh tế có những dấu hiệu thoát khỏi tình trạng giảm phát khi Ngân hàng trung ương Nhật Bản lần đầu tiên tăng lãi suất chính sách kể từ năm 2007, lợi nhuận doanh nghiệp và niềm tin kinh doanh cải thiện nhưng tiêu dùng tư nhân vẫn yếu do phục hồi niềm tin người tiêu dùng chậm trong bối cảnh tiền lương danh nghĩa tăng trưởng chậm là nguyên nhân khiến UN nhận định không mấy khả quan về tăng trưởng của nền kinh tế Nhật Bản.
IMF dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản giảm từ mức 1,9% năm 2023 xuống còn 0,9% năm 2024, giữ nguyên so với dự báo đưa ra trong tháng 01/2024.
Theo WB, tăng trưởng kinh tế Nhật Bản dự báo chỉ đạt 0,7% năm 2024, điều chỉnh giảm 0,2 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra trong tháng 01/2024 và thấp hơn 1,2 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng 1,9% của năm 2023. Tiêu dùng yếu, xuất khẩu chậm lại, nhu cầu du lịch không tăng là những nguyên nhân khiến WB hạ dự báo tăng trưởng của Nhật Bản.
ADB dự báo tăng trưởng GDP Nhật Bản giảm xuống còn 0,6% năm 2024 so với mức tăng trưởng 1,9% năm 2023 do xuất khẩu và đầu tư yếu cũng như quá trình phục hồi sau đại dịch đang yếu dần. ADB giữ nguyên mức dự báo tăng trưởng đưa ra trong tháng 12/2023 cho quốc gia này.
OECD dự báo tăng trưởng GDP của nền kinh tế Nhật Bản giảm từ mức 1,9% năm 2023 xuống còn 0,5% trong năm 2024, điều chỉnh giảm 0,5 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 02/2024 khi các chính sách kinh tế vĩ mô bắt đầu được thắt chặt và chính phủ dừng chính sách trợ cấp sau đại dịch.
Trading Economics dự báo GDP Quý II/2024 của nền kinh tế Nhật Bản tăng 0,8% so với quý trước và tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số PMI tổng hợp tháng 6/2024 của Nhật Bản đạt 50,0 điểm, giảm 2,6 điểm so với mức 52,6 điểm trong tháng 5/2024 do hoạt động dịch vụ giảm (PMI dịch vụ đạt 49,8 điểm, giảm mạnh so với mức 53,8 điểm trong tháng 5/2024), nhưng được bù đắp nhờ lĩnh vực chế biến, chế tạo tăng (PMI chế biến chế tạo đạt 50,5 điểm, tăng 0,6 điểm so với mức 49,9 điểm trong tháng 5/2024).
Hình 4. Đánh giá tăng trưởng của Nhật Bản năm 2023 và dự báo tăng trưởng năm 2024 theo các tổ chức quốc tế
Nguồn: UN, IMF, WB, ADB và OECD
Theo Hình trên, hầu hết các tổ chức quốc tế đều dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản năm 2024 thấp hơn từ 1,0 đến 1,4 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng năm 2023, chỉ đạt từ 0,5% – 0,9% trong năm 2024 so với mức 1,9% của năm 2023. Riêng UN nhận định khả quan hơn khi cho rằng năm 2024 tốc độ tăng trưởng của kinh tế Nhật Bản chỉ thấp hơn 0,7 điểm phần trăm so với năm 2023 và sẽ tăng trưởng ở mức 1,2%.
OECD nhận định tăng trưởng GDP của Trung Quốc đạt 4,9% năm 2024, điều chỉnh tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 02/2024, phản ánh tác động tích cực của các chính sách kinh tế vĩ mô, gồm gói kích thích tài chính quy mô lớn trong năm 2024 và đầu tư vào cơ sở hạ tầng cũng như nhu cầu bên ngoài tăng.
ADB nhận định tiêu dùng tư nhân của nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục phục hồi trong năm 2024 khi thị trường lao động và thu nhập hộ gia đình được cải thiện. Nhu cầu trong nước và bên ngoài về công nghệ các-bon thấp, gồm xe điện, pin và năng lượng tái tạo, tiếp tục tăng mạnh. Trung Quốc tiếp tục hỗ trợ chính sách cho các ngành công nghệ bán dẫn và AI trong năm 2024. Đầu tư cơ sở hạ tầng và các dự án công cộng giúp tăng cường hoạt động xây dựng và hỗ trợ đầu tư tư nhân. Tuy nhiên, đầu tư bất động sản sẽ tiếp tục chậm lại do nhu cầu nhà ở trì trệ và hạn chế về tài chính đối với các nhà phát triển bất động sản cũng như tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ ở mức vừa phải. Do đó, ADB dự báo tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc năm 2024 đạt 4,8%, điều chỉnh tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 12/2023, nhưng vẫn thấp hơn mức 5,2% của năm 2023.
Theo UN, tăng trưởng GDP của nền kinh tế Trung Quốc dự báo đạt 4,8% năm 2024, tăng nhẹ 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024 nhưng vẫn thấp hơn mức 5,2% của năm 2023. Những thách thức trong lĩnh vực bất động sản như hoạt động đầu tư và bán bất động sản vẫn tiếp tục sụt giảm trong Quý I/2024, căng thẳng thương mại kéo dài làm hạn chế nhu cầu bên ngoài đối với hàng hóa Trung Quốc là những nguyên nhân chính khiến dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc năm 2024 thấp hơn năm 2023.
Theo WB, tốc độ tăng trưởng đầu tư tổng thể của Trung Quốc vẫn ở mức thấp, đầu tư vào bất động sản sụt giảm do suy thoái bất động sản tiếp tục bước sang năm thứ ba, niềm tin người tiêu dùng yếu, tiêu dùng trong nước ở mức thấp, với mức tăng trưởng doanh số bán lẻ dưới mức trung bình trước đại dịch, giá sản xuất tiếp tục giảm. Để thúc đẩy nhu cầu, Trung Quốc đã công bố các biện pháp chi tiêu bổ sung, gồm cả các dự án cơ sở hạ tầng, đồng thời Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc cũng đã cắt giảm lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đóng góp tích cực từ xuất khẩu ròng đã bù đắp cho nhu cầu trong nước đang suy giảm giúp cho tăng trưởng của Trung Quốc tăng nhẹ trong những tháng đầu năm 2024. Theo đó, WB điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP của Trung Quốc tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024, đạt 4,8% năm 2024, nhưng vẫn thấp hơn mức 5,2% trong năm 2023.
Trong Báo cáo cập nhật triển vọng kinh tế thế giới tháng 4/2024, IMF giữ nguyên dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trong tháng 01/2024, ở mức 4,6%, thấp hơn 0,6 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng 5,2% của năm 2023 do tác động tích cực của các nhân tố thúc đẩy tiêu dùng và kích thích tài chính sau đại dịch đang giảm dần đi kèm với những rủi ro của thị trường bất động sản.
Theo Trading Economics, GDP Quý II/2024 của nền kinh tế Trung Quốc dự báo tăng 0,8% so với Quý I/2024 và tăng 5,0% so với cùng kỳ năm 2023.
Chỉ số PMI tổng hợp của Trung Quốc trong tháng 5/2024 đạt 54,1 điểm, tăng 1,3 điểm so với chỉ số của tháng trước (52,8 điểm), phản ánh tháng tăng trưởng thứ 7 liên tiếp của hoạt động khu vực tư nhân do giá trị sản xuất của ngành công nghiệp chế biến chế tạo và dịch vụ tăng mạnh.
Hình 5. Đánh giá tăng trưởng của Trung Quốc năm 2023 và dự báo tăng trưởng năm 2024 theo các tổ chức quốc tế
Nguồn: OECD, ADB, UN, WB và IMF
Như vậy, các tổ chức quốc tế cùng nhận định tăng trưởng của Trung Quốc năm 2024 sẽ chậm lại, đạt khoảng 4,6% – 4,9%, thấp hơn mức 5,2% của năm 2023.
Theo báo cáo “Triển vọng phát triển châu Á” của ADB, tăng trưởng khu vực Đông Nam Á dự báo đạt 4,6% trong năm 2024 do nhu cầu nội địa mạnh mẽ và du lịch tiếp tục phục hồi. In-đô-nê-xi-a sẽ duy trì mức tăng trưởng 5,0% trong năm 2024. Ngoài nhu cầu trong nước mạnh mẽ, thay đổi trong xuất khẩu hàng hóa bắt đầu từ giữa năm 2024 sẽ thúc đẩy tăng trưởng ở Thái Lan (2,6%), Ma-lai-xi-a (4,5%), Việt Nam (6,0%), và Phi-li-pin (6,0%).
Hình 6. Dự báo tăng trưởng năm 2024 của các quốc gia ASEAN
Theo Hình trên, tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam và Phi-li-pin được ADB nhận định sẽ dẫn đầu khu vực Đông Nam Á, ở mức 6,0%. Tuy nhiên, theo dự báo của WB, Cam-pu-chia và Phi-li-pin là hai quốc gia được dự báo có mức tăng trưởng cao nhất, đạt 5,8%.
WB nhận định khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, không bao gồm Trung Quốc, đạt mức tăng trưởng 4,6% trong năm 2024 do thương mại hàng hóa toàn cầu tăng mang lại lợi ích cho xuất khẩu và hoạt động công nghiệp, bù đắp những tác động của tăng trưởng chậm lại ở Trung Quốc. Hoạt động tăng tốc dự kiến sẽ diễn ra mạnh mẽ ở một số nền kinh tế định hướng xuất khẩu, bao gồm Thái Lan và Việt Nam. Du lịch toàn cầu dần phục hồi sau đại dịch sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ ở một số nền kinh tế, trong đó có Cam-pu-chia và Thái Lan.
Theo Trading Economics, dự báo tăng trưởng Quý II/2024 so với cùng kỳ năm trước của Phi-li-pin đạt 6,1%; In-đô-nê-xi-a 4,5%; Ma-lai-xi-a 3,5%; Thái Lan 2,4%, Xin-ga-po 2,1%. Tăng trưởng Quý II/2024 so với quý trước của các quốc gia trên lần lượt là 1,2%; 3,4%; 0,5%; 0,7% và 0,9%.
Tăng trưởng GDP của Việt Nam dự báo đạt 6,0% trong năm 2024 khi nhu cầu toàn cầu được cải thiện và số lượng khách du lịch tăng sẽ hỗ trợ tăng trưởng xuất khẩu, mặc dù các sự kiện ở Biển Đỏ đang làm tăng chi phí vận tải và có thể ảnh hưởng đến sự phục hồi của xuất khẩu. Các kế hoạch đầu tư công và thu nhập thực tế của hộ gia đình ngày càng tăng sẽ hỗ trợ nhu cầu trong nước tăng lên. Khi các hoạt động tăng tốc, lạm phát sẽ đạt 3,9% vào năm 2024. Các chính sách tài chính và tiền tệ mở rộng sẽ hỗ trợ nhu cầu trong nước. Nguy cơ chậm trễ trong giải ngân đầu tư công có thể được giải quyết bằng cách đơn giản hóa các thủ tục và quy định. Những cải thiện về chính sách kinh tế vĩ mô, hệ thống bảo trợ xã hội toàn diện hơn và cải cách tài chính có thể giúp Việt Nam tăng khả năng chống chịu trước các cú sốc và hỗ trợ thực hiện cải cách thành công. Việc tăng tốc triển khai các nguồn năng lượng tái tạo trong ngành điện có thể giúp tăng trưởng bền vững hơn.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam duy trì lập trường chính sách tiền tệ phù hợp kể từ khi hạ lãi suất tái cấp vốn từ 6,0% xuống 4,5% và lãi suất chiết khấu từ 4,5% xuống 3,0% trong năm 2023. Lạm phát ở mức 4,0% trong tháng 3/2024, hiện đang ở ngưỡng dưới của mục tiêu 4,0% – 4,5% cho năm 2024. Chính phủ đang hỗ trợ các hộ gia đình và doanh nghiệp thông qua việc tạm thời giảm thuế suất VAT từ 10% xuống 8% cho đến giữa năm 2024, đồng thời cắt giảm và hoãn thuế tạm thời, bao gồm cắt giảm thuế môi trường và phí đăng ký ô tô.
ADB dự báo kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng 6,0% trong năm 2024. Sự phục hồi tăng trưởng trong các ngành sản xuất, dịch vụ hướng tới xuất khẩu và nông nghiệp ổn định sẽ giúp nền kinh tế phục hồi. Dòng vốn FDI và kiều hối tích cực, thặng dư thương mại bền vững, chính sách hỗ trợ tài chính và chương trình đầu tư công cũng sẽ kích thích tăng trưởng. Tuy nhiên, những bất ổn địa chính trị toàn cầu có thể cản trở tăng trưởng. Các biện pháp hỗ trợ tăng trưởng và khung pháp lý liên quan đến đất đai được cải thiện đi kèm với việc giảm lãi suất gần đây sẽ hỗ trợ lĩnh vực xây dựng. Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ (Fed) cắt giảm lãi suất trong năm 2024 sẽ giúp giảm bớt áp lực lên tiền Việt Nam đồng. Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi có hiệu lực từ ngày 01/7/2024 cũng sẽ giúp giám sát tốt hơn hoạt động cho vay. Năm 2024, đầu tư công sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ nền kinh tế. Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp chính sách khác nhau để đẩy nhanh giải ngân đầu tư công và nâng cao hiệu quả thực thi.
Trong họp báo về Triển vọng kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương ngày 30/4/2024, ông Thomas Helbling, Phó Vụ trưởng Vụ châu Á – Thái Bình Dương của IMF[14] nhận định sau những khó khăn của năm 2023, các yếu tố kinh tế vĩ mô của Việt Nam sẽ dần được cải thiện trong năm 2024. Theo đó, IMF nhận định tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam đạt 5,8%.
Một số rủi ro đối với triển vọng tăng trưởng của Việt Nam gồm sự phân mảnh kinh tế toàn cầu ngày càng tăng, rủi ro về ổn định tài chính, đặc biệt liên quan đến lĩnh vực xây dựng.
IMF nhận định Việt Nam cần thắt chặt thêm chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ trước diễn biến lạm phát và khuyến nghị Việt Nam cần tiếp tục thực hiện cải cách cơ cấu, thu hẹp khoảng cách giáo dục, khoảng cách cơ sở hạ tầng, cải thiện khả năng kết nối để thúc đẩy tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam trong tương lai.
Theo báo cáo Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 5/2024, WB nhận định sản xuất công nghiệp tăng mạnh nhờ xuất khẩu cải thiện trong tháng 5/2024. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 5/2024 tăng 2,6% so với tháng trước. Trong tháng 5/2024, doanh số bán lẻ tăng 1,2% so với tháng trước và tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng mạnh trong tháng 5/2024. So với cùng kỳ năm 2023, cả xuất khẩu và nhập khẩu đều đạt tốc độ tăng trưởng cao, lần lượt là 15,8% và 29,9% trong tháng 5/2024. FDI tiếp tục tăng ổn định khi FDI đăng ký đạt 11,07 tỷ USD tính đến cuối tháng 5/2024, tăng 2,0% so với cùng kỳ năm ngoái. Giải ngân FDI lũy kế đạt 8,3 tỷ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2023. Phần lớn vốn FDI tiếp tục tập trung vào các ngành chế biến chế tạo và bất động sản. Trong khi lạm phát chung không thay đổi, lạm phát cơ bản giảm nhẹ. CPI tháng 5/2024 tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước. Lãi suất bình quân liên ngân hàng qua đêm duy trì ở mức cao trong tháng 5/2024, phản ánh chính sách tiếp tục thắt chặt thanh khoản của Ngân hàng Nhà nước. Chính phủ áp dụng các biện pháp hỗ trợ nền kinh tế trong nước, gồm kéo dài thời gian giảm thuế VAT, giảm lãi suất cho vay và đẩy sớm ngày bắt đầu có hiệu lực thi hành của Luật Bất động sản sửa đổi lên 6 tháng (tức từ ngày 01/7/2024). Theo đó, WB dự báo tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam đạt 5,5%, giữ nguyên so với dự báo trong tháng 01/2024.
Theo Trading Economics, dự báo tăng trưởng Quý II/2024 của Việt Nam so với cùng kỳ năm trước đạt 5,1%.
Chỉ số PMI ngành chế biến, chế tạo của Việt Nam đạt 50,3 trong tháng 5/2024, không thay đổi so với tháng trước, cho thấy các điều kiện kinh doanh vẫn đang cải thiện kể từ tháng 4/2024. Số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng mạnh trong tháng 5/2024 khi công ty thu hút được khách hàng mới.
Hình 7. Đánh giá tăng trưởng năm 2023 và dự báo tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam theo các tổ chức quốc tế
Theo Hình trên, các tổ chức quốc tế đều nhận định tăng trưởng của Việt Nam năm 2024 cao hơn năm 2023 từ 0,5-1,0 điểm phần trăm. Trong đó, OECD và ADB có nhận định khả quan nhất khi cùng dự báo kinh tế Việt Nam năm 2024 tăng trưởng 6,0%, cao hơn mức dự báo 5,8% của IMF và 5,5% của WB.
[1] Báo cáo được cập nhật đến ngày 27/6/2024.
[2] WB (Tháng 06/2024), “Triển vọng kinh tế toàn cầu”, https://www.worldbank.org/en/publication/global-economic-prospects, truy cập ngày 19/6/2024.
[3] FR (Tháng 6/2024), “Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 6/2024”, https://www.fitchratings.com/research/sovereigns/global-economic-outlook-june-2024-17-06-2024, truy cập ngày 24/6/2024.
[4] UN (Tháng 05/2024), “Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới – cập nhật giữa năm 2024”, https://desapublications.un.org/publications/world-economic-situation-and-prospects-mid-2024?_ga=2.5323955.1851850669.1718828290-586668022.1718828290, truy cập ngày 19/6/2024.
[5] OECD (Tháng 06/2024), “Báo cáo Triển vọng kinh tế OECD: Sự phục hồi đang diễn ra”, https://www.oecd.org/economic-outlook/may-2024/, truy cập ngày 18/6/2024.
[6] EU (Tháng 02/2023), “Dự báo kinh tế châu Âu mùa đông 2024: Trì hoãn phục hồi tăng trưởng trong bối cảnh nới lỏng lạm phát”, https://economy-finance.ec.europa.eu/document/download/c63e0da2-c6d6-4d13-8dcb-646b0d1927a4_en?filename=ip286_en.pdf, truy cập ngày 18/6/2024.
[7] IMF (Tháng 04/2024), “Triển vọng kinh tế thế giới – Vững chắc nhưng chậm: Khả năng phục hồi khác nhau giữa các quốc gia”, https://www.imf.org/en/Publications/WEO/Issues/2024/04/16/world-economic-outlook-april-2024, truy cập ngày 18/6/2024.
[8] ADB (Tháng 04/2024), “Triển vọng phát triển châu Á”, https://www.adb.org/publications/series/asian-development-outlook, truy cập ngày 18/6/2024.
[9] Không truy cập được số liệu chính thức năm 2023 của FR.
[10] WTO (Tháng 04/2024), “Triển vọng thương mại toàn cầu và thống kê”, https://www.wto.org/english/res_e/publications_e/trade_outlook24_e.htm, truy cập ngày 18/6/2024.
[11] FAO (Tháng 06/2024), “Chỉ số giá lương thực thực phẩm”, https://www.fao.org/worldfoodsituation/foodpricesindex/en/, truy cập ngày 18/6/2024.
[12] ILO (Tháng 05/2024), “Triển vọng việc làm và xã hội Thế giới: Cập nhật tháng 05/2024”. https://www.ilo.org/publications/flagship-reports/world-employment-and-social-outlook-may-2024-update, truy cập ngày 18/6/2024.
[13] Trading Economics (Tháng 6/2024), https://tradingeconomics.com/united-states/forecast truy cập ngày 21/6/2024.
[14] IMF (tháng 4/2024), Họp báo về Triển vọng kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương ngày 30/4/2024, https://www.imf.org/en/videos/view?vid=6352042218112, truy cập ngày 24/6/2024.