Nguyễn Tri Phương Cần Thơ Map

Nguyễn Tri Phương Cần Thơ Map

{{Model.AvgRating >= 10 ? "10" : (Model.AvgRating|number:1)}}

CÁC GIAI ĐOẠN CỦA GÂY MÊ (THEO GUEDEL)

Đã từ lâu, gây mê đồng nghĩa với việc tạo ra giấc ngủ mong muốn, càng giống giấc ngủ bình thường càng tốt.

Trên lâm sàng nghiên cứu trên một người trưởng thanh khoẻ mạnh và gây mê đơn thuần bằng ether và được theo dõi dưạ trên các yếu tố sau:

Những phản xạ và trương lực cơ.

Được duy trì bởi phản xạ nhận cảm bản thể. Phản xạ này giảm rõ ở đầu giai đoạnIII và sẽ biến mất ở cuối giai đoạn này. Điều này làm mềm, bắt đầu là cơ mặt và cuối cùng là các cơ thắt khi đạt tới giai đoạn nhiễm độc. Khi dừng gây mê, trương lực cơ sẽ diễn ra theo chiều ngược lại.

Những nghiên cứu về phản xạ trong cuộc gây mê là nền tảng để có thể những sâu hơn về gây mê.

Tiến trình của những phản xạ này là tăng dần, chúng biến mất theo một thứ tự nhất định và lại xuất hiện theo thứ tự ngược lại khi cuộc gây mê kết thúc.

Các phản xạ nuốt, nôn biến mất dần dần ở cuối giai đoạn thứ II (hoặc giai đoạn kích thích).

Phản xạ thanh quản và đóng nắp thanh môn mất đi muộn hơn, vào giữa giai đoạn III (giai đoạn mê phẫu thuật). Điều này dẫn đến giảm và sau đó là mất phản xạ ho của phế quản.

Các phản xạ phế quản và thanh quản là rất quan trọng, chúng quyết định đến số lượng các tai biến và tai nạn khi gây mê nông. Giai đoạn an toàn của gây mê phẫu thuật là sau khi các phản xạ này biến mất.

Các phản xạ tiết dịch chi phối hoạt động của các tuyến nước mắt, mồ hôi, nước bọt và phế quản sẽ mất đi ở đầu giai đoạn III.

Các phản xạ mắt là dễ theo dõi nhất: phản xạ mi mắt mất đi muộn hơn (ở mức độ 2 của giai đoạn III).

Việc giải thích về sự biến mất của các phản xạ mắt thường là khó khi sử dụng phối hợp thuốc, do hiện tượng giao thoa tác dụng của chúng trên hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm.

Các biểu hiện này được đánh giá thông qua nhịp và biên độ của cử động cơ thể. Sự đều đặn của thở ra và hít vào, không có sự ngắt quãng giữa 2 thì này là biểu hiện của giai đoạn mê phẫu thuật. Giai đoạn thở hỗn loạn với nhịp tim và biên độ không đều xuất hiện trước giai đoạn này. Hiên tượng suy thở, đặc biệt là hít vào rất ngắn sau một giai đoạn ngừng thở, thể hiện sự bắt đầu của giai đoạn nhiễm độc.

Đầu tiên, biểu hiện của hệ tuần hoàn là nhịp tim nhanh không đều, sau đó đều nhưng vẫn còn khá nhanh, huyết áp động mạch trở về bình thường sau khi tăng nhẹ. ở giai đoạn nhiễm độc xuất hiện hiện tượng suy tuần hoàn với mạch nhanh, yếu và không đều, thể hiện một sự truỵ mạch ngoại biên. Một giai đoạn tăng huyết áp ngắn xuất hiện (có lẽ do hiện tượng ứ đọng CO2) sau đó da trở nên nhợt nhạt, lạnh, tím tái, tuy vẫn còn nhìn thấy tuần hoàn mao mạch.

Khi gây mê da hồng, khô và ấm, nhưng trong giai đoạn nhiễm độc, da nhợt nhạt, tím tái nhẹ và lạnh, nhất là ở đầu chi.

Như vậy dựa trên những biểu hiện này, Guedel đã xác định 4 giai đoạn của gây mê.

Sự tập trung ý thức của bệnh nhân trở nên yếu dần.

Bệnh nhân cảm thấy mọi thứ xung quanh chuyển động, nhưng vẫn nhớ được.

Mạch không đều, nhịp tim trong khoảng 110 - 150 lần/phút, huyết áp động mạch tăng.

Các biểu hiện ngoài da bình thường.

Hô hấp rối loạn, thở ra lâu hơn hít vào.

Điện não đồ thể hiện bệnh nhân còn tỉnh.

Tăng tất cả các phản xạ, đây là giai đoạn nguy hiểm của gây mê.

Khi sử dụng ether, bệnh nhân thường nôn và hiện tượng này chỉ mất đi ở cuối giai đoạn kích thích. Các phản xạ thanh quản và khí quán vẫn còn, có thể dẫn tới phù thanh quản hoặc khí quản, đe doạ đến thiếu oxy cho người bệnh.

Thuốc tiền mê là rất cần thiết để hạn chế hiện tượng này.

Biểu hiện da vẫn bình thường, các biểu hiện về tim mạch và hô hấp cũng như giai đoạn trước, thở nhanh và nhịp tim nhanh không đều.

Mất ý thức và cảm giác, tăng vận động, thể hiện rằng các trung tâm tuỷ bị kích thích không đồng bộ với các trung tâm ở vỏ não.

Đồng tử co nhỏ, mắt chuyển động, trương lực cơ vận nhãn tăng nhẹ.

Hô hấp đều có khi nhịp thở chậm.

Mạch, huyết áp động mạch bình thường.

Phản xạ họng, phản xạ nuốt mất.

Mạch + huyết áp động mạch bình thường.

Hô hấp nông (liệt cơ bụng, liệt dần các cơ liên sườn, hoạt động cơ hoành bình thường).

Phản xạ giác mạc mất, mạch tăng nhanh, huyết áp động mạch giảm.

Hô hấp nông không đều (các cơ liên sườn liệt hoàn toàn, hoạt động cơ hoành giảm dần).

Mạch tăng nhanh, huyết áp động mạch giảm hơn.

Thấy những dấu hiệu ở mức độ III4, đòi hỏi phải ngừng sử dụng ether ngay lập tức.

Hoạt động của các cơ hô hấp ở lồng ngực giảm và dừng lại, chỉ còn cơ hoành hoạt động yếu với những khoảng nghỉ khi hít vào, kéo dài dần ra và ngắt quãng từng hồi.

Đồng tử giãn hết cỡ, mạch nhỏ khó bắt, không đều, huyết áp động mạch giảm nhiều và kẹt.

Tuần hoàn mao mạch giảm, da từ màu hồng sang nhợt nhạt, tím tái, sau đó đột ngột ngừng hô hấp, ngừng tuần hoàn, biểu hiện da tím tái, không còn mạch bẹn, mạch cảnh, không nghe được nhịp tim, không còn chảy máu tại vùng phẫu thuật, đồng tử giãn tối đa, giãn các cơ thắt.

Nếu không dùng thuốc mê ether vẫn vào máu và gây nên nguy hiểm cho bệnh nhân.

Ngay khi dừng thuốc mê, tất cả các dấu hiệu của gây mê xuất hiện trở lại nhưng theo trật tự đảo ngược nhưng việc đào thải ether nhanh hơn nhiều so với việc bão hoà. Trong khoảng 5 - 10 phút, bệnh nhân đã loại thải một nửa lượng ether ngấm vào máu, lượng còn lại sẽ đào thải trong khoảng 12 giờ.

Những dấu hiệu trên có thể dễ dàng thấy ở bệnh nhân gây mê bằng ether đơn thuần và không có tiền mê.

Ngày nay người ta thường phối hợp thuốc để tăng tác dụng mong muốn nhưng không làm tăng tác hại của chúng.

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

Phổi là cơ quan chính của hệ hô hấp, là một cặp cơ quan xốp , chứa đầy không khí nằm ở 2 bên lồng ngực; có tính chất đàn hồi, xốp và mềm.

Phổi được bao bọc trong 1 thanh mạc gồm 2 lá được gọi là màng phổi. Mỗi người có 2 lá phổi và cấu tạo bởi các thùy. Lá phổi phải lớn hơn phổi trái. ở người trưởng thành phổi có thể chứa 4500 – 5000ml không khí

Phổi có dạng một nửa hình nón, được treo trong khoang màng phổi bởi cuống phổi và dây chằng phổi

• Có ba mặt – hai bờ - một đỉnh.

- Mặt ngoài: lồi, áp vào thành ngực -> Có ấn xương sườn. Có rãnh chếch ở 2 bên bắt đầu từ ngang mức gian sườn 3 ở phía sau chạy xuống đáy phổi, chia phổi ra thành các thuỳ phổi.

Mặt các thuỳ phổi áp vào nhau gọi là mặt gian thuỳ. Trên bề mặt phổi có các tiểu thuỳ phổi - đơn vị cơ sở của phổi.

Phổi phải có rãnh ngang nên phổi phải có ba thuỳ là thùy trên, thùy giữa và thùy dưới. Phổi trái chỉ có khe chếch, nên phổi trái chỉ có hai thuỳ là thùy trên và thùy dưới

- Mặt trong ( Mặt trung thất): hơi lõm , gồm 2 phần :

+ Rốn phổi có hình là chiếc vợt bóng bàn . Đây là nơi các thành phần cuống phổi đi qua , bao gồm ĐM phổi, phế quản chính , hai TM phổi, ĐM và TM phế quản , hạch bạch huyết , các dây thần kinh, có dây chằng tam giác.

+ Mặt trong phổi (P) có rãnh tĩnh mạch đơn, còn phổi (T) có rãnh động mạch chủ

+ Phía trên rốn phổi có rãnh động mạch dưới đòn và rãnh thân tĩnh mạch cánh tay đầu.

ở phổi phải : có một chỗ lõm gọi là ấn tim

ở phổi trái : ấn tim rất sâu nên gọi là hố tim , có khuyết tim

- Mặt hoành : ở phía dưới và nằm sát lên vòm hoành , qua vòm hoành với các tạng của ổ bụng, điển hình là gan

- Bờ trước : ranh giới giữa mặt sườn và mặt trung thất chùm lên trên màng ngoài tim

- Bờ dưới: bao lấy mặt hoành. Gồm 2 đoạn

+ Đoạn cong : ngăn cách mặt sườn và mặt hoành

+ Đoạn thẳng : ngăn cách mặt trong và mặt hoành

- Đỉnh phổi : Nhổ lên khỏi xương sườn 1 khoảng 3 cm

- Bao gồm cây phế quản, động mạch phổi, tĩnh mạch phổi, động mạch và tĩnh mạch phế quản, bạch huyết của phổi và thần kinh của phổi.

Phế quản chính ( chui vào lỗ rốn phổi ) -> phế quản thùy -> phế quản phân thùy -> phế quản hạ thùy-> Phế quản tiểu thùy ( tiểu thùy phổi là một đơn vị cơ sở của phổi)

Phế quản gồm một lớp sụn , một lớp cơ mỏng, trong cùng là lớp niêm mạc.

Thân ĐM phổi bắt đầu từ lỗ ĐM phổi tâm thất phải, chạy lên trên và ra sau đến bờ sau quai ĐM chủ thì chia thành ĐM phổi (T) và ĐM phổi (P).

ĐM phổi trái : chếch sang trái, bắt chéo mặt trước phế quản chính trái→ chui vào rốn phổi → đi ra ngoài rồi phía sau thân phế quản.

ĐM phổi phải: dài và lớn hơn ĐM phổi T. Đi ngang từ trái→ phải

Đây là thành phần dinh dưỡng của phổi

Động mạch phế quản được tách ra từ ĐM chủ sau hoặc trước của phế quản chính

Máu động mạch phế quản này là máu giàu oxy, trái ngược với máu giàu CO2 trong động mạch phổi. Nó nuôi dưỡng các mô nâng đỡ của phổi bao gồm mô liên kết, vách và phế quản lớn và nhỏ. Sau máu phế quản và động mạch này đi qua mô nâng đỡ nó đổ vào tĩnh mạch phổi và đi vào tâm nhĩ trái, thay vì đưa vào tâm nhĩ phải. Do đó, lưu lượng chảy vào tâm nhĩ trái và công suất tâm thất trái lớn hơn khoảng 1-2% công suất tâm thất phải.

Tĩnh mạch phế quản đổ vào các tĩnh mạch đơn, một số ít nhanh nhỏ sẽ đổ vào tĩnh mạch phổi.

Bao gồm nhiều bạch huyết chảy trong nhu mô phổi và đổ vào các hạch bạch huyết phổi ở chỗ chia đôi các phế quản

Các hạch bạch huyết đổ vào các hạch phế quản phổi nằm ở rốn phổi

Đổ vào hạch khí dưới và hạch khí trên

Được tạo bởi các sợi thần kinh giao cảm và các nhánh dây thần kinh lang thang.

Hệ thần kinh giao cảm: xuất phát từ đám rối phổi

Hệ phó giao cảm: các nhánh của dây thần kinh lang thang

Cấu tạo gồm 2 lá: màng phổi tạng và màng phổi thành. Giữa 2 lá màng phổi là hai ổ màng phổi

Mỏng, trong suốt bao phủ toàn bộ bề mặt của phổi, ngoại trừ rốn phổi và dính chặt vào nhu mô phổi, lách cả vào các khe gian thùy

ở rốn phổi, màng phổi tạng quặt ra để liên tiếp với màng phổi thành.

Phủ lên toàn bộ các thành của khoang chứa phổi. Bao gồm:

+ màng phổi sườn: áp sát vào mặt trong lồng ngực, ngăn cách với thành ngực bởi lớp mô liên kết mỏng gọi là mạc nội ngực

+ đỉnh màng phổi : phần mạc nội ngực ở đây được gọi là màng trên màng phổi. Đỉnh màng phổi được các dây chằng treo đỉnh màng phổi cố định vào cột sống cổ, xương sườn, xương đòn.